Chuyển đổi phương thức đào tạo từ niên chế sang học chế tín chỉ là bước chuyển tất yếu khách quan của hệ thống giáo dục đào tạo đại học của Việt Nam theo xu thế họi nhập khu vực và quốc tế. Tuy nhiên, để phương thức đào tạo theo học chế tín chỉ phát huy tác dụng và hạn chế tối đa những nhược điểm vốn có của nó thì ngoài thời gian cần thiết để triển khai, rút kinh nghiệm thực tiễn, cần có sự vào cuộc khoa học, quyết liệt, có hiệu quả của các cấp quản lý vĩ mô, các cơ sở đào tạo, sự thay đổi nhận thức, tư duy hành động của từng cá nhân trong hệ thống đào tạo đại học hiện nay. Qua một thời gian thực hiện phương thức đào tạo theo học chế tín chỉ, đứng ở góc độ của người thực hiện tôi thấy cần nâng cao nhận thức của các chủ thế tham gia vào quá trình đào tạo đại học về ưu, nhược điểm của phương thức đào tạo này và đề xuất một số giải pháp với các chủ thể quản lý đào tạo đại học nhằm phát huy những ưu điểm và khắc phục các nhược điểm của phương thức đào tạo theo học chế tín chỉ, góp phần thực hiện thắng lợi công cuộc cải cách và nâng cao chất lượng giáo dục đại học ở nước ta.
Ưu điểm đào tạo theo học chế tín chỉ và biện pháp khai thác những ưu điểm
Một là, Đào tạo đại học theo học chế tín chỉ dựa trên sự phân chia chương trình học tập thành các modun có thể đo lường, tích luỹ và lắp ghép được để tiến tới hệ thống văn bằng theo các tiêu thức tổ hợp nhất định, được thống nhất và công nhận rộng rãi thông qua hoạt động quản lý giáo dục đào tạo ở những thời gian và địa điểm khác nhau. Chính ưu điểm vượt trội này cho phép hệ thống giáo dục đại học theo học chế tín chỉ có tính mở, linh hoạt và kết nối các cơ sở đào tạo, mang lại những tiện ích tối đa cho người học. Để phát huy được ưu điểm này thì cơ quan quản lý giáo dục đại học cần thực hiện được 2 yêu cầu:
- Thống nhất chương trình đào tạo đại học của các cơ sở đào tạo đại học cùng khối ngành, chuyên ngành.
- Ban hành bộ tiêu chuẩn kiểm định và đánh giá chất lượng giáo dục đại học vừa tiếp cận với thông lệ, chuẩn mực khu vực, quốc tế vừa có lộ trình áp dụng từng phần phù hợp với điều kiện cụ thể của từng trường đại học của Việt Nam.
Thực tế, từ năm 2002 Bộ Giáo dục và đào tạo đã quy định các trường phải xây dựng chương trình đào tạo các ngành của bậc đào tạo cao đẳng, đại học, sau đại học theo khung chương trình khung của bộ, đồng thời từ năm 2008 đến nay, Bộ Giáo dục & Đào tạo cũng tiến hành đánh giá, xếp hạng các trường đại học, cao đẳng trên cả nước, đây là hai giải pháp tích cực của lộ trình hội nhập và nâng cao chất lượng giáo dục đại học. Tuy nhiên, cả hai nhóm giải pháp trên của Bộ đều chưa được tổng kết, công bố kết quả nên chưa thể phát huy tác dụng của phương thức đào tạo theo tín chỉ. Nên chăng, Bộ Giáo dục và đào tạo nên tham khảo bộ tiêu chuẩn kiểm định chất lượng giáo dục đại học của các tổ chức quốc tế, khu vực được thừa nhận rộng rãi. Ví dụ, Bộ tiêu chuẩn đánh giá chất lượng giáo dục đại học của các trường đại học Đông Nam Á (AUN-QA)… rất gần gũi với Việt Nam, hoặc bộ tiêu chuẩn đánh giá chất lượng giáo dục đại học của Vương Quốc Anh… để bộ tiêu chuẩn đánh giá chất lượng giáo dục hiện nay vừa phù hợp với điều kiện của Việt Nam vừa tiếp cận dần với tiêu chuẩn đánh giá chất lượng giáo dục đại học của khu vực và quốc tế. Khi hoàn thành bộ tiêu chuẩn đánh giá chất lượng giáo dục đại học của Việt Nam cần công khai thời gian, lộ trình áp dụng bộ tiêu chuẩn kiểm định, đánh giá, xếp hạng các trường đại học trên mạng thông tin đại chúng. Kết quả kiểm định, đánh giá chất lượng các trường đại học cần công bố công khai. Mặt khác, Bộ cần tổ chức hội thảo lấy ý kiến thống nhất từ các chuyên gia quản lý đào tạo về chương trình đào tạo, thời gian đào tạo, điều kiện tiên quyết, số tín chỉ, nội dung cơ bản… của từng môn học, ngành học… để các trường cùng khối ngành sớm thừa nhận kết quả của nhau. Thực hiện đánh giá chất lượng đào tạo theo chuẩn mực chung vừa giúp các trường thấy rõ mình đang đứng ở thang, bậc nào của bộ tiêu chuẩn đánh giá chất lượng, từ đó có phương hướng hoạt động nhằm nâng cao chất lượng bên trong hệ thống đào tạo của mình, đồng thời nâng cao sự tin tưởng lẫn nhau về chất lượng đào tạo giữa các trường trong nội khối. Kết quả của việc đánh giá chất lượng giúp các cơ sở đào tạo đại học chủ động cho lộ trình hội nhập, tìm đối tác hợp tác trong đào tạo, từng bước xây dựng chương trình đào tạo các ngành một cách tương đồng hướng đến chuẩn mực chung, thúc đẩy sự công nhận thành quả đào tạo của nhau, tận dụng được tối đa lợi thế đào tạo theo tín chỉ ở cấp quốc gia, khu vực và quốc tế.
Hai là, đào tạo theo tín chỉ chuyển quyền lựa chọn, quyết định mục tiêu giao dục, địa điểm đào tạo, kế hoạch học tập, môn học… từ nhà trường sang cho người học trên cơ sở các trường công khai số lượng tín chỉ cần tích luỹ, trình tự, logic các môn học cần tích luỹ để được công nhận và trao văn bằng tốt nghiệp của trường. Các môn học đã được sinh viên tích luỹ ở trường, của văn bằng này có thể được bảo lưu, sử dụng tiếp cho văn bằng khác, ở trường khác nếu chương trình theo quy định của văn bằng, nhà trường đó chứa các môn học, tín chỉ đã tích luỹ, các cơ sở đào tạo có hệ thống chương trình đào tạo thống nhất và công nhận lẫn nhau. Như vậy, học chế tín chỉ mang lại hiệu quả học tập cao do giá thành học tập thấp, độ mềm dẻo, khả năng thích ứng của chương trình đào tạo phù hợp với mục tiêu học tập suốt đời của mỗi người trong xã hội hiện đại, hiệu quả về quản lý cao do tính tự chủ và tự chịu trách nhiệm của người học và người dạy trong hệ thống đào tạo không ngừng được củng cố và nâng cao. Ưu điểm này góp phần giảm tải chương trình đào tạo trùng lặp trong các chuyên ngành của từng trường, tạo cơ hội lớn cho người học chuyển đổi ngành nghề, học được nhiều văn bằng đại học để thích nghi tốt hơn với cuộc sống hiện đại, góp phần nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực cho đất nước… Các tiện ích này cũng chỉ phát huy được tác dụng khi các cơ sở đào tạo có nguồn lực tài chính cần thiết để đầu tư hệ thống trang thiết bị, cơ sở vật chất, lực lượng lao động giảng dạy, quản lý đáp ứng được nhu cầu được bảo vệ và tra cứu dữ liệu, kết nối thông tin, đăng, xuất của người học vào hệ thống thông tin nội bộ của từng trường phù hợp với thời đại bùng nổ thông tin và phát triển nhanh của khoa học công nghệ hiện nay.
Ba là, Học chế tín chỉ thể hiện đầy đủ tính thích ứng, tính mở của hệ thống giáo dục đại học trong thời đại công nghệ thông tin phát triển và hội nhập quốc tế về giáo dục như một nhu cầu tất yếu. Trong hệ thống đào tạo đại học theo tín chỉ, ngoài các môn bắt buộc còn có nhiều môn học cho sinh viên tự chọn và khi đã đưa vào chương trình các môn học này đảm bảo có người dạy. Do đó, số môn học mà nhà trường tổ chức giảng dạy cho một chương tình để cấp văn bằng bao giờ cũng có tổng số tín chỉ lớn hơn số tín chỉ quy định mà một sinh viên phải tích luỹ để hoàn thành chương trình đó. Căn cứ vào hệ thống tín chỉ, với sự hướng dẫn của cố vấn học tập, sinh viên có thể xây dựng được kế hoạch học tập phù hợp với riêng mình, xác định rõ kế hoạch về: địa điểm, lịch trình, phương pháp học cụ thể của từng môn học, khi chương trình đào tạo của các cơ sở đã kết nối internet thì chương trình đào tạo e-learning là sự lựa chọn tối ưu của những người đang đi làm tham gia học tập nâng cao trình độ và lấy bằng đại học của các trường đại học trên phạm vi toàn cầu. Những thế mạnh của học chế tín chỉ này tạo điều kiện thuận lợi cho người học lựa chọn, bố trí kế hoạch học tập phù hợp với điều kiện và khả năng của mình. Ngoài ra, hệ thống tín chỉ còn cho phép sinh viên tích luỹ tín chỉ bằng nhiều hình thức khác nhau, tự chịu trách nhiệm về kết quả học tập của mình cho từng môn học cũng như cho cả quá trình học tập trong từng trường đại học. Như vậy, phương thức đào tạo theo tín chỉ tối đa hoá cơ chế tự chủ và tự chịu trách nhiệm của người dạy, người học, cơ sở đào tạo, góp phần thực hiện công bằng và nâng cao phúc lợi xã hội, tối ưu hoá được cơ hội học tập cho tất cả mọi thành viên trong xã hội. Tuy nhiên, ưu thế nà chỉ trở thành hiện thực khi hệ thống giáo dục đại học theo chế tín chỉ đã được chuẩn hoá và phát triển ở bậc cao theo cả chiều rộng lẫn bề sâu đòi hỏi sự nỗ lực của cả cộng đồng và nhiều thế hệ. Chúng ta có quyền mơ ước về một xã hội học tập như thế!
Nhược điểm của giáo dục đại học theo học chế tín chỉ và những biện pháp khắc phục
Mỗi mô hình, hệ thống tổ chức đều có tính 2 mặt. Giáo dục đại học theo học chế tín chỉ cũng vậy. Bên cạnh những ưu điểm vượt trội so với hệ thống giáo dục đại học theo chế tín chỉ đến nay cũng đã bộc lộ những nhược điểm nên cần có những biện pháp điều chỉnh thích hợp nhằm đảm bảo chất lượng. Cụ thể:
Thứ nhất, Học chế tín chỉ dựa trên nền tảng các modun được lắp ghép linh hoạt với nhau nên nếu không xây dựng rà soát một cách khoa học sẽ dẫn đến sự cắt vụn kiến thức. Một môn học chỉ kéo dài một học kỳ thậm chí diễn ra trong một, hai tuần (tuỳ theo số tín chỉ và lịch học), và sinh viên thường học 4 – 5 môn học trong một đợt, 8 – 10 môn học/một học kỳ, và để đạt một văn bằng sinh viên học khoảng 40 môn học. Trong khi đó đặc trưng của học chế tín chỉ là chuyển trung tâm của việc dạy-học sang người học với nhiều công cụ hỗ trợ giảng dạy và kênh thông tin khai thác. Khi thời gian học môn học ngắn, thời lượng 2 – 3 tín chỉ thì cả người dạy và người học đều phải chạy đua với thời gian. Để khắc phục nhược điểm này, các nhà quản lý đào tạo cần xây dựng các môn học có số tín chỉ lớn (5-10), thời gian học cả kỳ và thay đổi phương thức kiểm tra đánh giá không nên quá tập trung trọng số vào cuối kỳ. Để tích luỹ kiến thức sinh viên cần có thời gian dài hơn, kiến thức sẽ được hệ thống hơn, số lượng môn học phải tích luỹ để đạt một văn bằng có thể nhỏ hơn 20 và việc bố trí lịch học, giảng dạy, đăng, xuất thông tin từ sinh viên, cố vấn học tập, quản lý đào tạo, khảo thí và giáo viên phải tuân thủ tối đa nguyên lý đào tạo theo học chế tín chỉ, tránh đào tạo tín chỉ theo hình thức, bố trí số đơn vị tín chỉ cho các môn học quá nhỏ (2 đến 3 tín chỉ), thời gian ngắn, lựa chọn, đăng ký tín chỉ, cố vấn học tập hình thức làm mất đi ưu điểm của phương thức đào tạo này.
Thứ hai, Việc thừa nhận các hoạt động giáo dục dựa trên số tín chỉ một cách rộng rãi, một số môn học tương ứng với một lượng tín chỉ được giảng dạy ở ngoài trường đại học có giá trị như các tín chỉ được tích luỹ trong các cơ sở đào tạo của nhà trường có nguy cơ làm giảm giá trị của các hoạt động khoa học nghiêm túc. Khi cơ quan quản lý chức năng không vào cuộc một cách quyết liệt, không quy trách nhiệm cụ thế: từ điều kiện mở trường, trung tâm đào tạo bậc đại học, cao đẳng… đến quy trình tuyển sinh, đào tạo… không có bộ tiêu chuẩn đo lường, kiểm định chất lượng đào tạo đại học một cách công khai, minh bạch, theo thông lệ chung… thì hiện tượng đánh đồng chất lượng, vàng thau lẫn lộn rất dễ xảy ra. Đây là một thực tế cần có sự quản lý thống nhất và công khai các tiêu thức đánh giá chất lượng đào tạo của các cơ sở đào tạo đại học để đảm bảo chất lượng của phương thức đào tạo theo chế tín chỉ.
Thứ ba, Hệ thống đào tạo theo tín chỉ nếu không được tuyên truyền, phổ biến để đảm bảo các đối tượng tham gia vào quá trình đào tạo đại học hiểu và làm đúng với nội dung thực chất của nó thì sự thiếu hiểu biết và làm sai hệ thống đào tạo này - nhất là đối với sinh viên - sẽ làm méo mó động cơ học tập của sinh viên. Họ nhìn nhận trình độ học vấn quy định cho 1 văn bằng như là sự tích luỹ các tín chỉ hơn là học tập vì mục tiêu cuối cùng của nó là trình độ chuyên môn nghiệp vụ và năng lực tổ chức cuộc sống và việc làm của các cá nhân hài hoà với các chuẩn mực chung của xã hội… Bởi vậy, hơn ai hết, hệ thống quản lý của các cơ sở đào tạo cần phối hợp với các tổ chức đoàn thể và các bộ phận chức năng của tổ chức giáo dục và đào tạo đại học phổ biến kiến thức về hệ thống đào tạo theo học chế tín chỉ để từng đối tượng đều hiểu và thực hiện đúng đắn.
Thứ tư, Hệ thống tín chỉ tạo điều kiện mở rộng các cơ hội để nhận văn bằng đại học và đương nhiên nhu cầu cũng như số lượng văn bằng thực tế cung cấp sẽ tăng lên. Lúc đó có thể các trường đại học sẽ phải tập trung nguồn lực nhiều hơn vào việc xác nhận các hoạt động giáo dục ngoài trường hơn là cung cấp các hoạt động giáo dục trong trường. Cơ quan quản lý vĩ mô sẽ phải tập trung nguồn lực để đảm bảo hệ thống các trường đại học có chương trình thống nhất, thừa nhận lẫn nhau… sinh viên có thể chuyển đổi ngành học, trường học dễ dàng… do đó cũng đặt ra vấn đề quản trị chất lượng đào tạo của các nhà trường như một khâu trọng yếu, không thể thiếu được ở từng trường cũng như cả hệ thống đào tạo đại học để phương thức đào tạo theo hệ thống tín chỉ thành công.
TS.Nghiêm Thị Thà