Nhân học là ngành khoa học cơ bản, độc lập, xuất hiện vào nửa cuối thế kỷ XIX, là ngành phổ biến ở những nước nói tiếng Anh. Ngành học này có đối tượng nghiên cứu là con người, nghiên cứu mọi hình thái sinh học, kinh tế – xã hội – văn hóa của con người trong các cộng đồng cư dân, dân tộc với những nếp sống khác nhau và trong nhiều thời kỳ khác nhau.
Về phương pháp, ngành Nhân học (cụ thể là Nhân học văn hóa – xã hội) ở những nước nói tiếng Anh tuy có chiều hướng tổng hợp phương pháp định tính và định lượng của tất cả các ngành khoa học xã hội khác (gồm kinh tế học, xã hội học, chính trị học, tâm lý học, và sử học), nhưng đòi hỏi phải khởi đầu bằng phương pháp quan sát – tham dự sâu tại một – hai cộng đồng hay nhóm từ một năm trở lên và cần thông thạo ngôn ngữ địa phương nơi mình đi điền dã.
Về đối tượng nghiên cứu, từ hơn nửa thế kỷ qua, những nghiên cứu Nhân học ở xã hội công nghiệp hiện đại trong những nơi sản xuất hay dịch vụ (gồm cả ngân hàng, nhà máy công nghiệp cao), và ở những dân tộc có công nghiệp phát triển cao (như Hoa Kỳ, Nhật Bản) không còn là hiếm. Ngoài ra, ngành Nhân học văn hóa – xã hội ở những nước nói tiếng Anh vẫn còn nghiên cứu về những cộng đồng sinh sống bằng hái lượm hay nương rẫy quảng canh, bởi vì ngành Nhân học nghiên cứu mọi hình thái kinh tế – xã hội, văn hóa của con người, tuy nhiên những công trình ở các cộng đồng này không còn chiếm đa số so với những công trình nghiên cứu trong ngành.
Về vị trí của ngành Nhân học, ở Bắc Mỹ châu, ngành Nhân học có mối quan hệ hữu cơ với rất nhiều ngành khoa học khác đến độ khó phân biệt ranh giới giữa các ngành về mặt chủ đề. Điều này được phản ánh qua cách tổ chức phân ngành trong Nhân học văn hóa – xã hội như Nhân học sinh thái môi trường; Nhân học y tế; Nhân học kinh tế; Thân tộc và tổ chức xã hội; Nhân học chính trị và pháp luật; Nhân học tâm lý và nhận thức; Nhân học tôn giáo và nghi lễ; Nhân học nghệ thuật và biểu tượng, v.v… Người ta cũng thấy rõ mối quan hệ giữa các phân ngành trong Nhân học khi nghiên cưu như phân ngành Nhân học kinh tế có mối quan hệ với phân ngành Kinh tế phát triển(Development economics) trong Kinh tế học có mối quan hệ với Xã hội học kinh tế (Economic sociology) trong xã hội học, và cũng có mối quan hệ không kém mật thiết với Kinh tế chính trị học (Political economy) so với các ngành khác trong Nhân học văn hóa – xã hội. Ngay cả khái niệm Văn hóa tổ chức (Oganizational culture) hay Văn hóa doanh nghiệp (Firm culture) mà các nhà điều hành và quản lý doanh nghiệp Âu Mỹ quen thuộc cũng là một khái niệm mà ngành Nhân học văn hóa – xã hội đã có những đóng góp đáng kể trong việc triển khai, dựa vào những công trình nghiên cứu cụ thể.
Hiện nay hầu hết các trường đại học trên thế giới, kể cả các nước Đông Nam Á đều có chương trình đào tạo ngành Nhân học ở bậc Đại học và Sau đại học, đây là một ngành khoa học độc lập, ngang hàng với các ngành khoa học xã hội khác.
Tại Việt Nam trong giảng dạy và nghiên cứu khoa học trước đây không có ngành Nhân học (Anthropology) mà chỉ có ngành Dân tộc học (Ethnology), ảnh hưởng chủ yếu từ các trường phái khoa học của Pháp, Liên Xô cũ (nước Nga hiện nay)… Ngành Dân tộc học ở nước ta có nhiều thành tựu lớn về nghiên cứu khoa học, có nhiều đóng góp trong vấn đề đào tạo giảng dạy. Còn về tổ chức và chương trình đào tạo thì ngành Dân tộc học của các đại học ở Việt Nam trước đây là một trong ba chuyên ngành thuộc Khoa học Lịch sử.
Ngành nhân học Việt Nam hôm nay được xây dựng trên cơ sở kế thừa truyền thống của khoa học dân tộc học vốn đã hình thành ở nước ta từ đầu thế kỷ 20 kết hợp với các truyền thống nhân học Âu – Mỹ hiện đại.
Cơ hội việc làm sau khi tốt nghiệp?
Nhiều người có thể hỏi bạn sẽ làm gì khi theo học ngành nhân học? Trước khi trả lời câu hỏi này, bạn cần biết là mình sẽ làm được gì với một tấm bằng đại học? Câu trả lời sẽ là: không nhiều, nếu bạn không nỗ lực, không suy nghĩ và không có kế hoạch.
Với ngành nhân học, phạm vi kiến thức rộng cùng các kĩ năng và công cụ nghiên cứu độc đáo là một lợi thế đặc biệt hữu ích giúp sinh viên có thể làm nhiều loại công việc và thành công trong các lĩnh vực khác nhau.
- Những cử nhân có lực học và khả năng ngoại ngữ tốt thường có nhiều cơ hội theo học sau đại học ở trong nước và xin học bổng đi du học trình độâ thạc sĩ hay tiến sĩ ở nước ngoài. Những nhà nhân học có bằng sau đại học về ngành này thường tìm được những công việc vừa ý trong nhiều lĩnh vực đào tạo, nghiên cứu và tư vấn chính sách.
- Một số nhà nhân học tham gia giảng dạy nhân học ở các trường đại học, cao đẳng hay trung cấp.
- Có những nhà nhân học lại chọn làm việc trong các viện nghiên cứu, bảo tàng, khu du lịch, khu bảo tồn, thư viện.
- Nhiều người coi tấm bằng cử nhân ngành nhân học là một tiền đề quan trọng để làm việc trong các cơ quan nhà nước, các tổ chức đoàn thể, các tổ chức quốc tế, các tổ chức phi chính phủ và các tổ chức khác có nhu cầu sử dụng tri thức nhân học. Với những công việc này, vai trò của nhà nhân học thường là:
+Chuyên gia tư vấn cho các dự án phát triển, các chương trình nghiên cứu.
Tham gia hay làm tư vấn cho các hoạt động phát triển và chăm sóc sức khoẻ cộng đồng, các hoạt động du lịch, bảo tồn văn hoá-sinh thái.
+Một số đảm nhiệm các vị trí giám đốc chương trình, hay là người lập kế hoạch, phân tích thị trường, quản lí hành chính và nhân sự, nghiên cứu điều tra hay điều phối các dự án.
Để thành công với ngành nhân học, bạn cần có những tư chất gì?
Nhân học không đòi hỏi người học phải có những tư chất đặc biệt để thành công trong sự nghiệp. Tuy nhiên, các yếu tố sau được coi là những tài sản quan trọng giúp bạn thành công với nhân học:
- Đam mê nhân học, ham mê học hỏi và nghiên cứu là một trong những chìa khoá để vươn tới thành công.
- Khả năng làm chủ một ngoại ngữ thông dụng sẽ giúp bạn mở rộng tầm nhìn, vươn dài cánh tay ra bên ngoài biên giới quốc gia.
- Nếu có thêm khả năng sáng tạo, trí tưởng tượng, tư duy rõ ràng thì dường như bạn là người có duyên với nhân học.
(Nguồn: http://huongnghiep.vn)